Avalanche từ L1 tương thích với EVM đến việc triển khai công nghệ mạng con Subnet

Giới thiệu

Kể từ khi ra mắt mạng chính vào năm 2020, Avalanche đã phát triển thành một hệ sinh thái rộng lớn với hơn 500 dự án đang xây dựng, TVL của hệ có thời điểm lên đến 12 tỉ đô. Với kiến ​​trúc mạng con (subnet) độc đáo và cơ chế đồng thuận, Avalanche là một L1 tương thích với EVM hoặc được gọi là một tổ chức của các mạng không đồng nhất (heterogeneous networks). 2022 tiềm năng sẽ là một năm biến chuyển mình của Avalanche khi các mạng con subnet đạt được nhiều sức hút thật sự.

Trong bài viết này, chúng ta sẽ đi sâu vào công nghệ mạng subnet Avalanche, gồm kiến ​​trúc, ứng dụng và phân tích cạnh tranh về hệ sinh thái của nó.

Tổng quan về Avalanche

Avalanche được thành lập bởi Ava labs, một công ty phát triển phần mềm do Emin Gün Sirerthành lập có trụ sở tại New York.

Mạng lưới đã ra mắt mainnet vào tháng 9 năm 2020. Avalanche có thể xử lý khoảng 4500 giao dịch mỗi giây. Tps của Avalanche có thể khác nhau giữa ba chain tạo nên mạng lưới: Exchain chain (X-Chain) , Platform chain (P-Chain) và Contract chain (C-Chain). Mình sẽ trình bài chi tiết 3 chuỗi này ở phần bài viết bên dưới.

Các vấn đề về khả năng mở rộng của Ethereum

Để hiểu kiến ​​trúc của Avalanche, trước tiên chúng ta nên xem xét vấn đề mở rộng quy mô Ethereum.

Blockchain giống như các thành phố. Hãy tưởng tượng anh em đang sống trong một thành phố chỉ có một số lượng bất động sản hữu hạn. Khi ngày càng có nhiều người đổ xô vào thành phố, nó sẽ trở nên chật chội và nó sẽ kéo giá cả vật chất, không gian sống tăng lên. Điều tương tự cũng xảy ra với blockchain, thay vì không gian sống, các dự án đang cạnh tranh cho không gian khối và thay vì con người trong đó thì ở blockchain là các giao dịch trên chuỗi.

Con người trong không gian sống

Đối với Avalanche, dự án đưa ra hai cách tiếp cận để giải quyết vấn đề về khả năng mở rộng:

Giải pháp mở rộng theo chiều dọc và theo chiều ngang của blockchain
  1. Giải pháp mở rộng quy mô theo chiều dọc: Sự đồng thuận của Avalanche. Avalanche có thể đạt nhanh tới 4500 TPS mà không ảnh hưởng đến phân quyền và bảo mật, điều này khiến nó trở thành một trong những blockchain TOP nhanh nhất và an toàn nhất trong không gian tiền điện tử.
  2. Giải pháp mở rộng theo chiều ngang: Mạng con Avalanche. Thay vì một blockchain nguyên khối, Avalanche nên được xem như một tổ chức của các blockchain được xác thực bởi các mạng con khác nhau. Giải pháp mạng con đã cung cấp cho Avalanche khả năng mở rộng vô hạn, các nhà phát triển có thể khởi động một mạng con của họ trong vòng 12 giờ.

Giải pháp mở rộng quy mô theo chiều dọc: Sự đồng thuận của Avalanche

Sự đồng thuận của Avalanche

Hãy đi sâu hơn vào sự đồng thuận của Avalanche, chúng ta có thể dùng hình ảnh sân vận động để minh họa giao thức đồng thuận này.

Hãy tưởng tượng rằng anh em đang ở trong một sân vận động với hàng nghìn người và mục tiêu là đạt được sự đồng thuận về việc ủng hộ đội nào. Sân vận động lớn và đông đúc, để tìm hiểu về sở thích của đa số:

(1) Anh em quyết định hỏi năm người ngẫu nhiên gần đó về sở thích của họ.

(2) Nếu > 3 người bỏ phiếu cho đội xanh lam thì bạn sẽ thêm tín nhiệm cho đội xanh lam và ngược lại.

(3) Anh em thực hiện quy trình lấy mẫu này lặp đi lặp lại để tăng mức độ tin cậy.

(4) Mỗi ​​người trong sân vận động sẽ làm những điều tương tự.

(5) Mỗi ​​vòng tiếp theo sẽ xây dựng dựa trên động lượng của bên ưu tiên, giống như động lượng hình thành một quả cầu tuyết khi nó lăn từ đỉnh xuống dưới chân núi và với hiệu ứng như vậy sẽ dẫn đến một trận tuyết lở.

Như vậy, Avalanche Consensus là một giao thức leaderless BFT protocol, để đạt được sự đồng thuận, một node validator chỉ có thể truy vấn một số lượng nhỏ các node, thay vì giao tiếp với tất cả các node. Do đó, điều này có thể đạt được sự đồng thuận với tốc độ cực nhanh và độ chính xác cao.

Ngoài hiệu suất cao đạt được thông qua việc lấy mẫu, Avalanche cũng có đủ tính chất phi tập trung khi mức độ yêu cầu cấu hình thiết bị phần cứng vừa phải, mọi người đều có thể tham gia mạng chính bằng cách stake 2000 AVAX làm validator. Mạng hiện có hơn 1400 validator, và số lượng mạng con cũng đang ngày càng phát triển.

Giải pháp mở rộng theo chiều ngang: Mạng con Avalanche

Kiến trúc Avalanche

Avalanche có 3 chuỗi khối tích hợp sẵn: Exchain (X-Chain) , Platform (P-Chain) và Contract (C-Chain).

  • Đầu tiên là Exchain Chain hoặc X Chain. Nó xử lý việc minting và chuyển token trên mạng bao gồm cả chuyển AVAX coin. AVAX được sử dụng làm phí giao dịch và các phí giao dịch này sẽ được đốt cháy để giảm tỉ lệ lạm phát.
  • Chain thứ hai có tên là Platform Chain hoặc P Chain. Chain này sẽ điều phối tất cả các hoạt động liên quan đến xác thực mạng bao gồm staking và deligation. Muốn trở thành validator thì cần stake tối thiểu 2000 AVAX và người ủy quyền cần uỷ quyền tối thiểu là 25 AVAX. Phần thưởng staking khoảng 10% mỗi năm và thời gian unlock là 2 tuần. Ngoài ra P cũng cho phép tạo ra mạng con (Subnets), chúng cơ bản là các blockchain có thể tuỳ chỉnh và sẽ tận dụng các validator nodes của Avalanche
  • Chain thứ ba là Contract Chain hoặc C Chain, nơi chứa các hợp đồng thông minh. C chain sử dụng phiên bản sửa đổi của Ethereum Virtual Machine (EVM) cho các hợp đồng thông minh và TPS của nó được ước tính là gần 1500, hiệu suất này khá nhanh đối với giao dịch hợp đồng thông minh.

Mạng con (subnet) là viết tắt của Subnetwork và nó đại diện cho một tập hợp các validators đạt được sự đồng thuận về trạng thái của mạng. Một mạng con có thể được coi là lớp dưới cùng của stack và nhiều blockchains có thể tạo ra bên trên một subnet duy nhất. Có thể có nhiều chuỗi trên một subnet.

Blockchain chính của Avalanche được xác nhận và bảo mật bởi mạng chính (Primary Network). Mạng chính là một mạng subnet đặc biệt và dự án của các mạng con tùy chỉnh phải là thành viên của mạng chính bằng cách staking ít nhất 2000 AVAX. 

Tại sao mạng con lại quan trọng?

Cấu trúc mạng con subnet của Avalanche

Về lý thuyết, Avalanche cho phép tạo ra các mạng con vô hạn, đây là yếu tố quan trọng để mở rộng quy mô. Mỗi mạng con có thể riêng tư private (permissioned) hoặc công khai public (permissionless). Đối với khả năng tương tác chuỗi chéo (cross-chain), các chuỗi trong một mạng con cụ thể sẽ tương thích với nhau.

Khởi chạy các blockchains tùy chỉnh với mạng con Avalanche có 4 lợi ích chính:

1. Tính kinh tế

Triển khai trên một mạng con có nghĩa là anh em có thể tùy chỉnh token gas phi. Ví dụ như anh em có thể sử dụng AVAX hoặc thậm chí là token game riêng của riêng mình làm phí gas – phân phối token cho validator, đốt token, hoặc airdrop,…

2. Trải nghiệm người dùng

Việc chơi game phải liền mạch và chi phí rẻ. Mạng con sẽ giúp các ứng dụng trở loại bỏ vấn đề đắt đỏ do tắc nghẽn mạng, đảm bảo trải nghiệm mượt mà đến người dùng với chi phí phải chăng.

3. Yêu cầu cụ thể về ứng dụng

Các ứng dụng dựa trên blockchain khác nhau có thể yêu cầu validator phải có một số thuộc tính nhất định. Giả sử có một ứng dụng yêu cầu lượng lớn RAM hoặc sức mạnh của CPU. Mạng con có thể yêu cầu validator đáp ứng các yêu cầu phần cứng nhất định để ứng dụng không bị hiệu suất thấp do tốc độ của validator chậm.

4. Chính sách tuân thủ

Một số ví dụ về các yêu cầu tuân thủ bao gồm:

● Validator phải được đặt tại một quốc gia nhất định

● Validator phải vượt qua kiểm tra KYC / AML

● Validator phải có giấy phép nhất định

3. Use-case của mạng con

Ứng dụng use-case đầu tiên trên GameFi – Subnet đầu tiên trên Avalanche

Dự án DeFi Kingdoms triển khai subnets đầu tiên trên Avalanche

DeFi Kingdoms và Crabada đã ra mắt mạng con subnet trên Avalanche và họ đã đạt được khối lượng giao dịch ấn tượng với mức phí giao dịch thấp. Với nhiều game sắp ra mắt như Ascenders, Shrapnel và Castle Crush, phí giao dịch của Avalanche sẽ gây áp lực giảm phát lên AVAX.

Gas fee trên Avalanche
Phí gas sử dụng theo giờ – Nguồn Blockworks Research

 a. DFK Chain

DeFi Kingdom là một game phổ biến kết hợp hình thức P2E với DeFi. Dự án bắt đầu trên blockchain Harmony và sau khi đạt được sự chú ý nhất định, nó đã bắt đầu mở rộng sang các chuỗi khác. Vào ngày 1/4/2022, Defi Kingdom đã công bố chính thức mở rộng sang chuỗi DFK mạng con Avalanche.

Hiệu suất: Tính đến ngày 14 tháng 4, tổng giao dịch tăng lên 2.5 triệu và TVL là 215 triệu đô la. Kể từ ngày ra mắt, lượng Tx tổng thể hàng ngày Avalanche đã tăng gần 30%, lượng người dùng tích cực tăng 10%. Token JEWEL của game sẽ được sử dụng cho tất cả các giao dịch của chuỗi, nâng cao tiện ích của JEWEL.

Dữ liệu DFK trên Subnet của Avalanche

Runtime: Mạng con DFK sử dụng EVM tùy chỉnh, kết hợp với mô hình đồ DAGs (directed acyclic graphs) cho phép các chuỗi mở rộng quy mô vô hạn với chi phí không đáng kể.

Khả năng tương tác: vì Avalanche chưa công bố phương pháp tương tác chung giữa các chain nên việc truyền nội dung giữa mạng chính AVAX và chuỗi DFK được xử lý bằng cầu nối Synapse.

b. Crabada

Crabada là một game chế độ chiến đấu kiểu Axie phổ biến trong hệ sinh thái Avalanche, chiếm từ 15–40% phí gas trên Avalanche C.-chain. Gần đây, họ đã khởi chạy mạng con Swimmer Network.

Game Crababa khởi chạy mạng subnet trên Avalanche

Việc chuyển sang Swimmer Network đã giúp các nhiệm vụ khai thác (looting/ mining) do cộng đồng Crabada điều hành hiệu quả hơn. Người chơi đã ghi nhận mức phí giao dịch rẻ hơn và trải nghiệm tốt hơn, điều này cho thấy tiềm năng của mạng con đối với nhiều dự án trong tương lai.

Lượng giao dịch hàng ngày trên Avalanche tăng đột biến sau khi triển khai mạng subnet

Trong khi Crabada có token lạm phát TUS, tương tự như SLP của Axi nhưng nó có khả năng mang lại nhiều giá trị hơn. Crabada đang tìm kiếm tiềm năng để đưa các game nhỏ lên mạng con. (ví dụ: Snake City). Nếu ngày càng nhiều game sử dụng TUS cho game của họ, thì điều này sẽ mang lại giá trị nội tại cho token chính và mạng lưới của Crababa.

Mạng con với chức năng KYC

Lớp tính năng này được gọi là một tiền biên dịch (precompile). Về cơ bản, đó là một tính năng tùy chọn mà anh em có thể quyết định bật khi tạo mạng con EVM của riêng mình. Nhưng tính năng này hiện không khả dụng trên C-Chain.

Precompile cụ thể này cho phép người tạo mạng con subnet kiểm soát ai có thể gửi giao dịch đến mạng con của họ. Theo mặc định, các giao dịch từ các địa chỉ không xác định sẽ bị chặn. Chỉ những địa chỉ trong danh sách whitelist mới được phép. Quản trị viên được chỉ định có thể cập nhật whitelist sau khi khởi tạo.

Đây là bước đầu tiên để xây dựng một mạng con KYC / private subnet. Sau khi đặt nhà cung cấp KYC làm quản trị viên danh sách được phép, họ có thể cho phép mọi người tham gia sau khi đã vượt qua xác minh.

Các tính năng này cũng có rất nhiều tiềm năng trong một cộng đồng do xã hội quan tâm (ví dụ: FWB)

Người tạo mạng subnet có thể coi mạng con của mình như một cơ sở dữ liệu có thể ghi công khai, có thể ghi riêng tư.

Một nhóm nhỏ người dùng có thể phân phối rộng rãi một số dữ liệu ở định dạng phổ biến với các chỉ số và tích hợp công khai.

Các trường hợp use-case dành cho doanh nghiệp – Ngoài GameFi, ngoài Web 3.0

Một trong những mục tiêu của Ava Labs là áp dụng các đổi mới trên tiền điện tử cho các doanh nghiệp truyền thống. Bằng cách kết hợp hai thế giới này, Ava Labs hướng đến mục tiêu làm tất cả các giao dịch trở nên nhanh chóng và dễ dàng hơn.

“Làm việc với Mastercard cho chúng tôi cơ hội mang lại lợi ích của blockchain cho người tiêu dùng thông thường” – Chủ tịch Ava Labs John Wu

Một số doanh nghiệp đang xây dựng trên nền tảng như Deloitte, Togg và Lemonade . Những tính năng functionality này vẫn đang được triển khai và chúng ta nên chờ đợi kết quả trong thời gian tới.

Các ví dụ khác về use-case sử dụng mạng con:

  • Chuyên về phân chia và bán tài sản tương ứng với bất động sản, nơi validators phải lưu trữ liệu tài sản off-chain. (Các Dapp có khả năng áp dụng các giải pháp mạng con subnet: Retok Finance)
  • Đối với các ứng dụng hiệu suất rất cao, mạng con subnet có thể validators cần lượng RAM lớn hoặc sức mạnh CPU cho các ứng dụng cần 10,000 TPS trở lên.
  • Các mạng Private subnets tự như các blockchain doanh nghiệp như JP Morgan’s Quorum, R3’s Corda và hyperledger, nơi quyền truy cập bị hạn chế và nội dung của blockchain chỉ hiển thị cho những người trong cuộc.
  • Các blockchain hiện tại có thể chuyển trạng thái của mình sang Avalanche và sử dụng cơ chế đồng thuận của nó để đạt hiệu suất nhanh hơn, tăng cường bảo mật. Vì vậy, các blockchain như Bitcoin Cash, Ethereum classic đều có thể có mạng con riêng và sử dụng POS, sử dụng đồng native token làm tiền staking. Đã có phiên bản Avalanche của Zcash trên mạng con subnet.

Phân tích tính cạnh tranh của Avalanche với những blockchain khác

So sánh với các blockchain L1s: Cosmos, BNB, Avalanche

Khi mọi người nhận ra sức mạnh của mạng con subnet, sự cạnh tranh trong không gian này đã trở nên khốc liệt hơn:

● BNB đã thông báo ra mắt Binance Application Sidechain(BAS) vào ngày 29 tháng 3.

● Avalanche ra mắt chuỗi DFK mạng con subnet đầu tiên của mình vào ngày 1 tháng 4.

● Polygon đã cam kết dành 100 triệu đô la cho Supernets dưới dạng Blockchains dành riêng cho ứng dụng layer 1 vào ngày 22 tháng 4.

Để hiểu rõ hơn về mạng con Avalanche, anh em có thể tham khảo bảng bên dưới.

So sánh Avalanche với Cosmos, BNB
So sáng Avalanche với Cosmos, BNB – Nguồn tham khảo A Comparison of Heterogeneous Blockchain Networks

Mỗi giải pháp mở rộng quy mô theo chiều ngang được mô tả ở trên thực sự đi kèm với các lựa chọn thiết kế và sự cân bằng của riêng nó.

1. Chi phí đồng thuận so với An toàn so với Khả năng mở rộng

Các giao thức đồng thuận cổ điển (ví dụ: PBFT, Tendermint / Cosmos) dựa trên quá trình bỏ phiếu. Để đạt được hiệu suất nhanh hơn và chi phí giao tiếp thấp hơn, các mạng thường giới hạn validator của họ trên mạng (BSC dựa vào 21 validators; Cosmos có 150 validators), do đó họ phải hy sinh sự phân quyền.

2. Yêu cầu node so với khả năng mở rộng

Để làm cho hệ thống mang tính “permissionless” nhất có thể, các yêu cầu tối thiểu để chạy một node phải tương đối thấp. Tuy nhiên, khi các yêu cầu về node được giảm xuống, sức mạnh tính toán tổng hợp trên mạng sẽ giảm. Để đổi lấy hiệu suất cao hơn, một số blockchain sẽ tăng các yêu cầu về node. Đối với Solana, chi phí xác thực cần chi phí lên đến vài ngàn đô vì validator cần thiết bị có 12 core CPUs, RAM ít nhất 128 GB và dung lượng lưu trữ khổng lồ; Đối với validator trên BSC thường yêu cầu 48 GB RAM và 12 cores of CPU.

a. Ưu điểm của Avalanche

Avalanche cung cấp giải pháp cho những đánh đổi này bằng cách đi tiên phong trong một giao thức đồng thuận mới. Đối với vấn đề phức tạp về massage, Avalanche đồng thuận đảm bảo rằng, bằng cách tiến hành lấy mẫu con lặp đi lặp lại, số lượng tin nhắn nhận được trên mỗi node cho mỗi vòng vẫn không đổi, bất kể số lượng người tham gia. Về yêu cầu node, validator chỉ cần yêu cầu phần cứng không cao (2 cores, 4 GB memory) và nó không sử dụng lượng năng lượng quá lớn.

Ngoài sự đồng thuận, Avalanche còn có những ưu điểm sau:

● Khả năng tương thích cao: Avalanche hỗ trợ EVM, AVM, WASM và VM tùy chỉnh, vì vậy các nhà phát triển mạng con subnet có thể chuyển các phần lớn của cơ sở code hiện có vào dự án mới mà không tốn nhiều công sức. Các mạng con subnet cũng có thể sử dụng máy ảo Avalanche để xây dựng máy ảo của riêng mình. Mặc dù các nhà phát triển đang tạo một máy ảo mới, họ vẫn có thể chọn tạo một mạng con subnet thay vì khởi chạy một L1 riêng biệt, vì Avalanche đã xử lý các khía cạnh khó khăn nhất của việc khởi chạy một blockchain mới, cung cấp công cụ đồng thuận, bảo mật và hiệu ứng mạng.

● Mạng con Avalanche là mạng duy nhất hiện đang hoạt động: Bằng chứng đầu tiên về điều này là DFK Chain. Vào ngày đầu tiên ra mắt, mạng này đã tăng khối lượng Tx lên 30% và mạng lưới vẫn được đảm bảo.

● Cấu trúc chồng chéo liên kết mạng con: Hiện tại, hầu hết các L1 như Avalanche, Solana và Cosmos, thu hút validator bằng cách cung cấp phần thưởng staking. Câu hỏi đặt ra là, trong 50 năm nữa, làm cách nào để chúng ta đảm bảo rằng mạng lưới sẽ vẫn được duy trì khi tốc độ phát thải token giảm xuống và phần thưởng staking cũng giảm? Một câu trả lời cho điều này có thể là phí giao dịch được tạo ra bởi việc sử dụng mạng. Đối với Avalanche, nó được thiết kế theo cách mà mạng chính luôn có thể thu hút các validator cùng với sự mở rộng của các mạng con, do đó mạng chính sẽ được duy trì lâu dài. Kiến trúc độc đáo này cũng mang đến cho Avalanche một không gian thiết kế lớn hơn và tiềm năng tương tác trong tương lai, điều mà các mạng khác không có được.

● Mô hình giảm phát đi đôi với các chính sách phát triển: Trong ngắn hạn, có rất nhiều công cụ để thúc đẩy sự tăng trưởng, chẳng hạn như Avalanche Multiverse, chương trình incentive Avalanche Rush đang diễn ra, quỹ hệ sinh thái Blizzard, phát triển mạng con subnet và quỹ Culture Catalyst. Các chương trình này sẽ thúc đẩy sự thích ứng của mạng Avalanche và tạo ra nhu cầu mạnh mẽ đối với đồng token AVAX. Về phía nguồn cung, việc ra mắt các mạng con sẽ dẫn đến lượng khóa thanh khoản trên thị trường và lượng giao dịch cao hơn cũng dẫn đến việc đốt phí gas nhiều hơn, tiếp tục làm giảm nguồn cung lưu thông.

b. Những thách thức trong tương lai

● Các công cụ dành cho nhà phát triển của Avalanche không thân thiện như Cosmos (Cosmos SDK) và BAS (SDK mô-đun). Về cơ bản, tất cả bên phát triển web 3.0 đều đang cạnh tranh để giành được nguồn dev đang rất hạn chế, việc cung cấp các mô-đun và SDK có sẵn sẽ hấp dẫn hơn cho các nhà phát triển so với của Avalanche.

● Giải pháp tương tác của Avalanche vẫn chưa được công bố: Cosmos và BAS có giao thức chung cho việc giao tiếp liên chuỗi, nhưng ở thời điểm hiện tại, khả năng tương tác chuỗi chéo vẫn là mối quan tâm lớn đối với mạng con Avalanche nhằm mở rộng quy mô và phát triển.

So sánh với L2 Rollups

Ngoài các trận chiến trong L1, sự cạnh tranh giữa các layer khác nhau cũng nên được cân nhắc. Ví dụ so sánh Avalanche với các giải pháp L2.

So sánh các giải pháp L2 với Avalanche

Phân biệt mạng con subnet với các dự án L2

Avalanche hỗ trợ tất cả các máy ảo, bao gồm EVM, AVM, WASM hoặc máy ảo tùy chỉnh, vì vậy các nhà phát triển có thể chuyển code từ các chuỗi khác mà không cần nỗ lực thêm. Optimistic Rollup tương thích với EVM vì OVM cho phép triển khai logic hợp đồng thông minh tùy ý. Đối với ZK Rollup, mọi thứ hơi phức tạp, không có giải pháp trực tiếp nào cho khả năng tương thích với EVM và mọi người đang làm việc trong nhiều năm để giải quyết vấn đề này. Có hai người chơi chính trong ZK Rollup: StarkWare và zkSync. StarkWare hiện đang triển khai CairoVM yêu cầu các nhà phát triển viết bằng một ngôn ngữ mới (Cairo) và một trình chuyển tiếp (Warp) được thiết kế để giúp các nhà phát triển dịch Solidity sang Cairo. ZkSync đã ra mắt mạng thử nghiệm 2.0 triển khai zkEVM thân thiện với ZK Rollups và dự kiến ​​sẽ tương thích với EVM. 

Một ưu điểm khác của Avalanche là dễ dàng triển khai. Các nhà phát triển có thể tạo một chuỗi trong vòng 12 giờ với Avalanche. Hiện có 19 blockchain đang hoạt động trên mạng chính của Avalanche và hơn 300 chuỗi hoạt động trong mạng thử nghiệm của Fuji. Ngược lại, ZKRollups có chi phí triển khai cao hơn, vì các bằng chứng mật mã zero-knowledge cryptographic yêu cầu nhiều tài nguyên tính toán. Ngay cả với các nhà cung cấp dịch vụ node, các nhà phát triển cần phải học ngôn ngữ mới (hoặc sử dụng trình chuyển tiếp) để xây dựng Dapps trong ZK.

L2 không hy sinh tính bảo mật của chuỗi chính vì nó vẫn dựa vào chuỗi chính để xác minh việc thực thi.

Avalanche không có mô hình bảo mật chia sẻ như vậy (shared security model). Tuy nhiên, bảo mật được chia sẻ có thể không phải là một tính năng mong muốn trong nhiều trường hợp. Niềm tin của bạn gắn bó với người khác không phải là điều đáng mong đợi nếu như người khác gặp vấn đề, cụ thể như chuỗi chính gặp trục trặc.

  • Sự khác biệt chính khác giữa mạng con Avalanche và EVM layer 2 là sự phân mảnh của thanh khoản

Thay vì có một chuỗi, L2 phá vỡ tính thanh khoản trên chuỗi thành nhiều hệ thống khác nhau. Người dùng bây giờ phải truy cập và tương tác với từng chuỗi này. Ví dụ: dYdX, bởi vì nó ở layer 2, không thể tương tác với các khoản vay flash ở một nơi khác. Vấn đề không chỉ ở việc thanh khoản bị phá vỡ, mà bản thân giao thức cũng khác, và anh em không thể tự động chuyển từ cái này sang cái kia.

Với tính thanh khoản thống nhất trong hệ sinh thái mạng con Avalanche, tiền có thể di chuyển giữa các mạng con và C-chain sẽ được sử dụng. AVAX được đốt cháy cho mỗi lần di chuyển cross-chain. Chuyển tiền từ Swimmer Network sang chuỗi DFK yêu cầu AVAX, đây cũng là yếu tố tăng lượng demand cho token AVAX.

Đọc thêm: Tổng quan về dự án layer 2 trên Ethereum – Loopring

Hệ sinh thái Avalanche

Avalanche có một hệ sinh thái rất lớn với hơn 500 dự án được xây dựng trên đó. Anh em có thể tham khảo hình bên dưới.

Hệ sinh thái Avalanche
Hệ sinh thái Avalanche
Hệ sinh thái Avalanche – Nguồn Coin98

Định giá

Quay trở lại việc so sánh ban đầu rằng các blockchain giống như các thành phố hoặc quốc gia. Giá trị cốt lõi của mạng blockchain phải là khả năng trau dồi sự đổi mới, điều này có thể được phản ánh một phần thông qua nhu cầu sử dụng mạng, hệ sinh thái nhà phát triển và tổng giá trị đã khóa (TVL).

Chỉ số đánh giá blockchain Avalanche

Các chỉ số có màu sắc khác nhau là bội số định giá. Màu đỏ sẫm có nghĩa là nhà đầu tư đang thổi phồng về dự án. Vì vậy, họ muốn trả phí bảo hiểm cao hơn cho mỗi đơn vị giá trị mà mạng thu được. Như chúng ta có thể thấy, bội số định giá tương đối thấp kể từ Q4 năm 2021, điều này một phần là do tâm lý chung của thị trường và một lý do quan trọng khác là bước vào Q3 Avalanche đã có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng về việc sử dụng mạng và có giá trị TVL tăng trưởng mạnh trong giai đoạn cuối năm 2021.

Kết luận

Tóm lại, Avalanche cung cấp cho các nhà phát triển giải pháp mở rộng quy mô tương thích EVM có thể mở rộng, thiết thực và dễ tiếp cận. Avalanche có thể là những dự án tiên phong đưa ra ý tưởng về mạng con, nhưng nó sẽ không phải là người duy nhất. Tuy nhiên, với cơ chế đồng thuận cải tiến, thiết kế độc đáo trong kiến ​​trúc blockchain, đội ngũ phát triển nhiều kinh nghiệm, sự ra mắt thành công của chuỗi DFK, Swimmer Network,…chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng vào tiềm năng bùng nổ của Avalanche trong thời gian sắp tới.

Bài viết mới nhất

Bitwise CIO: Bitcoin halving là sự kiện ‘mua tin tức’.

Giám đốc đầu tư chính của Bitwise, Matt Hougan, đã phát biểu rằng Bitcoin halving không chỉ là một sự kiện thú vị mà...

Tether sẽ cải cách, mở rộng ra ngoài lĩnh vực stablecoin.

Tether đang chuẩn bị thực hiện một quy trình cải cách để mở rộng hoạt động của họ ra khỏi lĩnh vực stablecoin. Thông...

Token2049: Cuộc thảo luận về vai trò của các meme coin trong sự phát triển của ngành công nghiệp tiền điện tử.

Tại buổi hội thảo Token2049, các diễn giả đã thảo luận về vai trò của các meme coin trong sự phát triển của ngành...

Token2049: Binance cho biết thỏa thuận giám sát của Mỹ đặt ra những thách thức.

Phó Giám đốc điều hành của Binance, Noah Perlman, nhấn mạnh về những thách thức mà thỏa thuận giám sát của Mỹ mang lại....